Bài 4

 Gió, Chim Bồ Câu và Lửa

Những Biểu Hiệu của Thần Linh

 

 

T

ân Ước chứa đựng mạc khải về Chúa Thánh Thần như là một Ngôi Vị, hiện hữu với Chúa Cha và Chúa Con trong sự hiệp nhất của thần tính. Tuy nhiên, đây không phải là một mạc khải có những đặc tính rành mạch hẳn hoi, như mạc khải liên quan đến hai Ngôi kia. Câu của tiên tri Isaia, căn cứ vào đó chúng ta cho là một “Thiên Chúa ẩn thân” (Is.45:15), có thể được coi như một ám chỉ đặc biệt về Chúa Thánh Thần. Qua việc trở thành con người, Ngôi Con đã đi vào lãnh giới hữu hình thực nghiệm cho những ai đã thấy được Lời Sự Sống (x.1Jn.1:1) bằng con mắt của họ và chạm đến Người bằng bàn tay của họ. Việc làm chứng của họ đã hiến cho các thế hệ Kitô hữu sau này một qui điểm cụ thể nữa. Phần Ngôi Cha, trong khi là một siêu việt thể vô hình và khôn tả vẫn có thể tỏ hiện nơi Ngôi Con. Chúa Giêsu phán: “Ai thấy Thày là thấy Cha” (Jn.14:9). Hơn nữa, “thân phận làm cha”, cho dù ở tầm mức thần linh, cũng có thể hiểu được bằng việc so sánh với thân phận làm cha nơi con người là thân phận phản ảnh, mặc dù bất toàn, thân phận làm cha đời đời và tự hữu, như Thánh Phaolô đã viết (Eph.3:15).

            Trong khi đó, Ngôi Vị của Chúa Thánh Thần lại càng vượt ra ngoài tất cả mọi phương pháp chúng ta dùng để nhận thức. Đối với chúng ta, Ngôi ba là một Thiên Chúa ẩn thân và vô hình. Ngay cả đến điều này đi nữa, những so sánh dựa vào lãnh vực hiểu biết có tính cách nhân loại về Thần Linh lại càng mong manh. Nguồn gốc và việc trào tràn của tình yêu, một tình yêu phản ảnh Tình Yêu tự hữu trong linh hồn con người không phải là một việc dễ hiểu, một việc tự con người có thể biết được một cách nào đó. Bởi thế mới có mầu nhiệm yêu thương ở mức độ tâm lý và thần học, như Thánh Tôma ghi nhận (x.Tổng Luận Thần Học, I,q.27,a.4;q.36,a.1; q.37, a.1). Vậy nên, chúng ta có thể cắt nghĩa là, Thánh Linh, như chính tình yêu nhân loại, cần phải được diễn đạt bằng các biểu hiệu. Những biểu hiệu này chẳng những chứng tỏ cho thấy các sinh hoạt chủ động của Ngài, mà còn tỏ cho thấy Ngôi Vị của Ngài hiện diện nơi hoạt động của Ngài.

            Điều này thể hiện nơi biểu hiệu gió, một biểu hiệu chính đối với cảm nghiệm nơi biến cố Hiện Xuống là biến cố thiết yếu trong mạc khải về Chúa Thánh Thần: “Bỗng chốc, từ trời phát ra một tiếng động như gió thổi mạnh, và tràn ngập cả nhà nơi các vị đang tụ họp (cùng với Mẹ Maria)” (Acts 2:2).

            Theo các bản văn thánh kinh và các bản văn khác, gió thường được trình bày như một ngôi vị đến rồi đi. Chúa Giêsu nói về gió như vậy trong cuộc đàm đạo với Nicôđêmô, khi Người dùng thí dụ về gió để nói về Ngôi Vị của Chúa Thánh Thần: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông có thể nghe được tiếng của nó, song ông không biết nó từ đâu đến và sẽ đi đâu; ai sinh bởi Thần Linh cũng như thế” (Jn.3:8). Tác động của Chúa Thánh Thần, nhờ đó con người được “sinh bởi Thần Linh” (như nơi thân phận làm con được thừa nhận bởi ân sủng), được ví như gió. Cách so sánh được Chúa Giêsu dùng này làm sáng tỏ tất cả lòng quảng đại và tự phát của tác động này, tác động làm cho con người được tham phần vào sự sống của Thiên Chúa. Biểu hiệu gió ở đây như thể nói lên môït cách đặc biệt là sinh hoạt siêu nhiên Thiên Chúa dùng trong việc tự động đến với con người để biến đổi họ từ bên trong, để thánh hóa họ và, theo một ý nghĩa nào đó, như các Giáo Phụ nói, để thần linh hóa họ.

            Chúng ta cần phải thêm vào như sau, theo quan điểm ngữ học và mỹ từ học, biểu hiệu gió là một biểu hiệu gần cận với Thần Linh nhất. Chúng ta đã đề cập đến điều này ở những buổi giáo lý trước. Ở đây, chúng ta chỉ cần nhớ lại ý nghĩa của chữ ruah (trong sách Khởi Nguyên, đoạn 1 câu 2), nghĩa là “hơi thở”. Chúng ta biết rằng sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra với các Tông Đồ, “Người thở hơi trên” các vị mà phán “Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần” (Jn.20:22-23).

            Chúng ta cũng phải lưu ý là biểu hiệu gió, một ám chỉ hiển nhiên về Chúa Thánh Thần và tác động của Thần Linh, thuộc về ngôn từ và giáo huấn của Tân Ước. Còn trong Cựu Ước, gió, như trường hợp một “cơn giống tố” là biểu hiệu cho cơn giận của Thiên Chúa (x.Ez.13:13), và trường hợp “tiếng gió hiu hiu” lại có ý nói đến bản chất thân tình trong việc Ngài nói chuyện với các vị tiên tri (x.1Kgs.19:12).

            Cũng từ ngữ này được dùng để nói đến hơi thở của sự sống, một biểu hiệu cho quyền lực của Thiên Chúa trong việc phục hồi sự sống của những bộ xương nhân loại nơi sách tiên tri Ezekien: “Xin hãy đến, Oâi Thần Linh, từ bốn hướng gió mà thổi vào những xương thịt bị sát hại này để chúng được hồi sinh” (Ez.37:9). Trong Tân Ước, gió đã hiển nhiên trở nên biểu hiệu của tác động và sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.

            Một biểu hiệu khác là chim bồ câu, mà theo Phúc Aâm Nhất Lãm và Phúc Aâm thánh Gioan được biểu hiện trong việc Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa ở sông Dược Đăng. Biểu hiệu này thích hợp hơn biểu hiệu gió để nói về Ngôi Vị của Chúa Thánh Thần, vì chim bồ câu là một sinh vật, trong khi đó gió chỉ là một hiện tượng thiên nhiên thôi. Các thánh ký nói về chim bồ câu hầu như bằng cùng một từ ngữ. Thánh Mathêu viết (3:16): “Các tầng trời mở ra và Người thấy thần linh Thiên Chúa như chim bồ câu xuống và đến trên Người (tức đậu trên Chúa Giêsu)”. Thánh Marcô (1:10), thánh Luca (3:21-22) và thánh Gioan (1:32) đều viết cùng một kiểu. Vì sự quan trọng của biến cố này nơi đời sống của Chúa Giêsu, Đấng đã được “tấn phong làm đấng thiên sai” một cách tỏ tường, mà biểu hiệu  chim bồ câu mới cần phải được nhấn mạnh bằng hình ảnh nghệ thuật và bằng những bức tranh phác tả mầu nhiệm Chúa Thánh Thần, hoạt động và Ngôi Vị của Ngài.

            Trong Cựu Ước, chim bồ câu đã làm sứ giả cho việc giao hòa giữa Thiên Chúa với nhân loại vào thời Noe. Chim bồ câu đã mang lại cho vị tổ phụ này tin tức về trận lụt tràn ngập mặt đất (x.Gn.8:9-11).

            Trong Tân Ước, việc giao hòa này có được là do Bí Tích Rửa Tội, Bí Tích mà thánh Phêrô nói tới trong Thư thứ nhất của mình, so sánh Bí Tích này với “những người ... được cứu bởi nước” (1Pt.3:20-21). Do đó, chúng ta có thể thấy sự kiện này như một hương vị phảng phất cho biểu hiệu về thánh linh. Chúa Thánh Thần, Đấng là Tình Yêu, “tràn đổ tình yêu này vào lòng nhân loại”, như Thánh Phaolô viết (Rm.5:5), cũng là Đấng ban hòa bình, một tặng ân của Thiên Chúa.

            Chưa hết, tác động và Ngôi Vị của Chúa Thánh Thần còn được xác định bằng biểu hiệu lửa. Chúng ta biết rằng, thánh Gioan Tẩy Giả đã công bố tại sông Dược Đăng là: “Người (Chúa Kitô) sẽ rửa qúi vị trong Thần Linh và trong lửa” (Mt.3:11). Lửa là nguồn ấm áp và sáng soi, song nó cũng là một mãnh lực hủy hoại. Bởi thế, các Phúc Aâm nói về việc “quăng vào lửa” cây không sinh hoa kết trái (Mt.3:10; x.Jn.15:6); các Phúc Aâm cũng nói về việc “thiêu đốt trấu trong lửa không bao giờ tắt” (Mt.3:12). Phép rửa “trong Thần Linh và trong lửa” nói lên quyền lực thanh tẩy của lửa. Đây là một ngọn lửa nhiệm mầu thể hiện việc đòi hỏi của sự thánh thiện và của sự tinh tuyền mà Thần Linh Thiên Chúa là nguồn mạch.

            Chính Chúa Giêsu đã phán: “Tôi đã đến để đốt lửa trên thế gian; và Tôi còn mong gì hơn là nó được bùng sáng lên!” (Lk.12:49). Trong trường hợp này, chúng ta đang đối diện với ngọn lửa yêu thương của Thiên Chúa, của tình yêu “đã được tràn đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần” (Rm.5:5). Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, khi “các lưỡi lửa” xuất hiện trên đầu của các Tông Đồ, chúng ám chỉ là Thần Linh đã mang đến cho nhân loại tặng ân đuợc thông dự vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Tôma nói rằng, tình yêu, tức lửa mà Chúa Giêsu đã mang xuống thế gian, là “một thứ thông dự với Chúa Thánh Thần” (participatio quaedam Spiritus Santi; Summa Theol.,II-II,q.23,a.3,ad 3). Theo ý nghĩa này, lửa là biểu hiệu cho Chúa Thánh Thần, Đấng mà Ngôi Vị của Ngài trong Ba Ngôi Thiên Chúa là Tình Yêu.

           

(Bài Giáo Lý thứ 54 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ ngày Thứ Tư, 17-10-1990,

trong loạt 80 bài về chủ đề Chúa Thánh Thần)